Cần minh bạch hóa trong lĩnh vực chứng nhận nông nghiệp hữu cơ

Trong thời gian qua, hoạt động chứng nhận nông nghiệp hữu cơ tại Việt Nam chủ yếu được thực hiện bởi một số tổ chức chứng nhận ở nước ngoài, thực hiện đánh giá chứng nhận theo các tiêu chuẩn của USDA-NOP hay EC 834/2007 để phục vụ cho yêu cầu cụ thể của một số thị trường xuất khẩu.

Theo số liệu thống kê sơ bộ , đến thời điểm hiện tại ở Việt Nam có khoảng 18 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn USDA-NOP và 12 doanh nghiệp được chứng nhận theo tiêu chuẩn EC 834/2007. Hoạt động tự đánh giá, tự công bố theo hình thức của chương trình Hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS của IFOAM đã được triển khai tại 6 hệ thống ở các địa phương bao gồm Sóc Sơn – Hà Nội, Lương Sơn – Hoà Bình, Trác Văn – Hà Nam, Tân Lạc – Hoà Bình, Hội An và Bến Tre thu hút 298 thành viên là các hộ nông dân với tổng diện tích 27,8 héc ta công bố đạt tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ PGS, chuyển đổi 15,5 héc ta, cung cấp khoảng 714 tấn rau 1 năm cho thị trường nội địa.

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ đang là xu hướng được doanh nghiệp, người dân lựa chọn

Theo các doanh nghiệp, tại Việt Nam hiện vẫn chưa tổ chức nào có đủ thẩm quyền để chứng nhận một sản phẩm là sản phẩm hữu cơ vì chưa có quy định. Do đó, cách đơn giản nhất là doanh nghiệp sẽ phải mời một tổ chức nước ngoài vào kiểm tra, đánh giá và cấp chứng nhận cho sản phẩm hữu cơ. Nhưng việc mời một đơn vị thứ 3 cấp chứng nhận nhận như vậy là rất đắt đỏ.

Ông Trần Mạnh Chiến, Giám đốc chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch Bác Tôm, đồng thời là Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý Nông nghiệp tại Đại học Larenstein (Hà Lan) cho hay, chi phí để các tổ chức nước ngoài cấp chứng nhận sản phẩm hữu cơ như vậy, mỗi năm tính ra khoảng 4.000 đến 5.000 đô la Mỹ. Trong khi đó, sản xuất trong nước còn rất manh mún, nếu chỉ mời tổ chức nước ngoài về chứng nhận cho khoảng 1 héc ta rau thì giá thành sẽ đội lên rất cao, sản phẩm kém cạnh tranh.

Hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ trong nước đa phần sản xuất nông sản hữu cơ và được cấp chứng nhận PGS (Participatory Guarantee System), tức hệ thống bảo đảm dựa vào sự tham gia của các tổ chức và con người có liên quan trực tiếp vào chuỗi cung cấp hữu cơ. Nhưng, ông Chiến cũng thừa nhận, PGS và cả chứng nhận của VOA  đều không có giá trị pháp lý.

Đề cập đến vấn đề chứng nhận nông nghiệp hữu cơ, ông Nguyễn Nam Hải, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng ( Bộ KH&CN) cho hay, cũng giống như các nước đã phát triển về hoạt động này, hoạt động chứng nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ của Việt Nam không phải là chứng nhận về an toàn mà là hoạt động chứng nhận tự nguyện để khẳng định sự tin cậy và chính xác của công bố thông tin về đặc tính sản xuất hữu cơ trên nhãn sản phẩm nhằm bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng khi chấp nhận bỏ ra một chi phí lớn hơn cho sản phẩm được sản xuất theo phương thức hữu cơ.

“Trên quan điểm đó, Tổng cục TCĐLCL, Bộ Khoa học và Công nghệ đang triển khai xây dựng hệ thống chứng nhận nông nghiệp hữu cơ theo cơ chế tự nguyện do tổ chức chứng nhận bên thứ 3 thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc chứng nhận được quy định tại ISO/IEC 17065, chứng nhận việc xử lý các hoạt động và quá trình sản xuất sản phẩm hữu cơ phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia TCVN trong lĩnh vực này”, ông Hải cho biết.

Theo lãnh đạo Tổng cục TCĐLCL, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia TCVN hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế Codex về sản xuất nông nghiệp hữu cơ và xây dựng chương trình chứng nhận tương đồng với thực tiễn chung của các nước trên thế giới là điều kiện quan trọng để đảm bảo tiến tới thoả thuận và được các quốc gia khác chấp nhận theo nguyên tắc thừa nhận lẫn nhau, bước đầu là trong ASEAN, sau đó mở rộng tới các nước khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU, Ấn độ…, tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

Mặt khác, ông Hải cũng cho rằng cần khuyến khích và ghi nhận nỗ lực của các chương trình tự đánh giá, tự công bố như chương trình Hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS của IFOAM mà Hội nông nghiệp hữu cơ Việt Nam đang thúc đẩy triển khai. Khuyến khích các hình thức tự công bố phù hợp tiêu chuẩn với sự giám sát, thanh kiểm tra của các cơ quan có chức năng là một phương thức quản lý chất lượng mà hiện nay Tổng cục TCĐLCL đang đẩy mạnh theo đúng tinh thần tháo gỡ, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh nêu trong Nghị quyết 19 của Chính phủ. Tuy nhiên, cũng cần có sự minh bạch hoá và điều chỉnh thông tin từ phía chương trình Hệ thống đảm bảo cùng tham gia PGS để tránh nhầm lẫn giữa hoạt động tự công bố phù hợp với hoạt động chứng nhận do bên thứ ba thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam về quản lý chất lượng và đánh giá sự phù hợp.

Bên cạnh đó, Tổng cục TCĐLCL cũng khuyến khích các tổ chức, đơn vị sản xuất nông nghiệp nói chung, sản xuất nông nghiệp hữu cơ nói riêng tham gia đăng ký trong hệ thống mã số mã vạch (MSMV) quốc gia mà Tổng cục hiện đang là đầu mối quản lý. Trái với các hệ thống thiết lập QR Code tự phát hiện nay, hệ thống MSMV quốc gia cùng với các tiêu chuẩn ứng dụng phù hợp tiêu chuẩn quốc tế GS1 (VD: GS1 QR Code) là cơ sở để dữ liệu về tổ chức, đơn vị sản xuất nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp nói chung và nông nghiệp hữu cơ nói riêng được đăng ký, xác thực và đảm bảo độc lập, duy nhất trong hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về MSMV cũng như trong cơ sở dữ liệu MSMV kết nối với quốc tế, hỗ trợ cho việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm có xác thực thông tin.

Nguồn:vietq.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *